CÂY SẮN VIỆT NAM

Thứ Bảy, 2 tháng 3, 2024

Xây dựng phương pháp dung hợp tế bào trần của giống sắn KM94 với hai giống sắn HN3 và C-33

 Xây dựng phương pháp dung hợp tế bào trần của giống sắn KM94 với hai giống sắn HN3 và C-33

Phạm Thị Hương, Lê Ngọc Tuấn, Nguyễn Hùng, Nguyễn Thị Hạnh, Phạm Xuân Hội

DOWNLOAD

Tóm tắt

Nghiên cứu được thực hiện nhằm phát triển phương pháp tách tế bào trần từ mô thịt lá sắn tại Việt Nam, phục vụ dung hợp tế bào trần, phát triển giống sắn mới. Lá của giống sắn kháng bệnh khảm lá sắn HN3 và dòng sắn C-33 từ cây sắn nuôi cấy in vitro được tiền xử lý qua dung dịch có nền khoáng CPW (Frearson et al., 1973) có nồng độ mannitol tăng dần từ 5%; 9% và 13% mannitol, ủ trong các dung dịch trên với thời gian 1 giờ. Sau đó, ủ mẫu lá với dung dịch phân giải mô thịt lá có chứa cellulase 1,6% + macerozyme 0,8% trong thời gian 16 giờ, lắc 50 vòng/phút, ở nhiệt độ 25oC. Sản lượng tế bào trần trung bình giống HN3 đạt 1,0 × 107 TBT/g trọng lượng tươi, khả năng sống đạt 95,4%; giống C-33 đạt 1,9 × 107 TBT/g trọng lượng tươi với khả năng sống đạt 92,7%. Tế bào trần từ mô sẹo phôi hóa giống KM94 được dung hợp với tế bào trần từ mô thịt lá hai giống sắn HN3 và C-33 sử dụng chất xúc tác PEG MW 4000 ở nồng độ 30%. Mật độ tế bào trần phù hợp cho dung hợp từ 5 × 10- 1 × 106 . Tỷ lệ dung hợp trung bình giữa KM94-C33 là 32,68%, KM94×HN3 là 16,8%. Kết quả dung hợp giữa KM94×HN3 đã thu được 8 cây tái sinh.

 

Từ khoá: Cây sắn, tế bào trần, dung hợp

Đặc điểm sinh học, diễn biến mật độ và yếu tố ảnh hưởng tới mật độ bọ phấn trắng Bemisia tabaci (Hemiptera: Aleyrodidae) trên cây sắn

 Đặc điểm sinh học, diễn biến mật độ và yếu tố ảnh hưởng tới mật độ bọ phấn trắng Bemisia tabaci (Hemiptera: Aleyrodidae) trên cây sắn

Phạm Duy Trọng (1), Nguyễn Thị Thủy (1), Phạm Văn Sơn (1), Phạm Thị Nhạn (2), Nguyễn Thị Mai Lương (1), Trần Thị Thúy Hằng (1), Nguyễn Duy Mạn (1)

 

DOWNLOAD


Ở Việt Nam, sắn (Manihot esculenta) là cây trồng quan trọng sau lúa, ngô, là cây công nghiệp xuất khẩu triển vọng. Năm 2021 Việt Nam có 524,5 nghìn ha sắn với sản lượng 10,56 triệu tấn, tỉnh Đắk Lắk và Phú Yên có tổng diện tích trồng sắn 74,9 nghìn ha với tổng sản lượng là 1,76 triệu tấn (Tổng cục Thống kê, 2021).

 

Cây sắn là nguồn thu nhập chính của nhiều hộ nông dân nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số do cây sắn chịu được đất nghèo dinh dưỡng, chịu hạn tốt, dễ trồng, ít chăm sóc, chi phí thấp, dễ thu hoạch, dễ chế biến. Những năm gần đây sản xuất sắn gặp nhiều khó khăn và rủi ro do sâu bệnh gây ra như bệnh chổi rồng (Phytoplasma sp), rệp sáp hồng (Phenacoccus manihoti), nhện đỏ (Tetranychus sp.)…đặc biệt là bệnh khảm lá sắn do virus Sri Lanka Cassava Mosaic Virus gây ra. Bọ phấn trắng (Bemisia tabaci) đã được xác định là môi giới truyền bệnh khảm lá sắn. Bọ phấn trắng (Bemisia tabaci) là một trong những loài côn trùng gây hại nặng nhất của nhiều loại cây trồng nông nghiệp trên toàn thế giới (Oliveira, 2001). Ngoài việc gây hại trực tiếp bằng cách hút dịch của cây, bọ phần trắng còn gây hại gián tiếp thông qua sự phát triển của nấm muội đen và có thể truyền hơn 200 loại virus gây hại cho thực vật (Jones, 2003; Navas- Castilo, 2011). Việc kiểm soát bọ phấn trắng hiện nay được thực hiện chủ yếu bằng cách sử dụng thuốc diệt côn trùng, tuy nhiên đối với những cây trồng như cây sắn hoặc những cây không có giá trị kinh tế cao thì việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật là việc cần phải có sự lựa chọn và cân nhắc cho phù hợp với từng điều kiện.

 

Bên cạnh việc nghiên cứu tìm ra các giống sắn có khả năng chống chịu với bệnh khảm lá sắn thì các nghiên cứu về đặc điểm sinh học của bọ phấn trắng, các yếu tố sinh thái có ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến mật độ bọ phấn trắng trên đồng ruộng cũng cần được chú trọng để đưa ra các giải pháp quản lý đồng bộ góp phần thúc đẩy sản xuất sắn bền vững.