Lưu trữ Blog

CÂY SẮN VIỆT NAM

Chủ Nhật, 1 tháng 12, 2024

Phân tích transcriptome, giải phẩu học và hình thái học trong cơ chế điều tiết tính trạng chiều cao cây sắn

 Phân tích transcriptome, giải phẩu học và hình thái học trong cơ chế điều tiết tính trạng chiều cao cây sắn

Nguồn; Zhaoqin CaiLixia RuanWanling WeiWen HeHaixia YangHuixian ChenZhenhua LiangZhenling HuangXiu LanXiufen ZhangRuolan HuangChunhui ZhaoTianyuan LiLongfei HeHengrui Li. 2024. Morphological, anatomical, and transcriptomics analysis reveals the regulatory mechanisms of cassava plant height development. BMC Genomics; 2024 Jul 17; 25(1):699. doi: 10.1186/s12864-024-10599-2.

 

Sắn là một trong ba cây có củ chủ lực (khoai tây, khoai lang) và cây thứ sáu trong loài lương thực quan trọng của thế giới. Cải tiến năng suất vẫn là mục tiêu hàng đầu trong chọn tạo giống sắn. Chú ý, chiều cao cây tác động có ý nghĩa đến năng suất củ và phẩm chất củ; tuy nhiên, cơ chế phát triển chiều cao cây sắn vẫn chưa rõ ràng.

 

Theo nghiên cứu này, người ta tiến hành xem xét các cơ chế liên quan đến chiều cao cây sắn thông qua phân tích kiểu hình, giải phẩu học, và transcriptomic. Kết quả phân tích kiểu hình và giải phẩu thực vật cho cây sắn thân lùn so với cây sắn thấn cao, biểu thị sự giảm đáng kể chiều cao và tăng đáng kể diện tích mạch mô lóng thân (xylem area). Trong khi đó, phân tích sinh lý thực vật cho thấy hàm lượng lignin của sắn thân lùn cao hơn đáng kể so với giống sắn thân cao. Chú ý, kết quả phân tích transcriptome  ở các mô lóng thân  xác định được nhiều gen chức năng DEGs (differentially expressed genes) bao gồm kết quả tổng hợp thành tế bào và mở rộng thành tế bào, sự truyền tín hiệu hormone thực vật, sinh tổng hợp phenylpropanoid, sinh tổng hợp flavonoid giữa 2 giống sắn thân lùn và thân cao.

 

Kết quả cho thấy mô tế bào của lóng thân (internode tissue), sự phân bào, lignin hóa thành tế bào thứ cấp, biểu hiện gen có liên quan đến hormone; chúng đóng vai trò quan trọng quyết định chiều cao cây sắn. Cuối cùng, nghiên cứu đã cung cấp cho chúng ta cách nhìn mới về cơ chế hình thái học chiều cao cây sắn, xác định được gen ứng cử viên điều tiết chiều cao cây, chúng có thể đóng vai trò là nguồn vật liệu di truyền đáng giá cgo cải tiến giống sắn cao sản, lùn, trong tương lai.

 

Xem https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/39020298/

 

Hình: So sánh đạc điểm kiểu hình giữa cây sắn XX048 và NZ199. (A) Chiều cao cây của XX048 và NZ199. Scale bars = 0.1 m. (B) Chiều cao cây của XX048 và NZ199 qua sáu giai đoạn phát triển; màu vàng camm là NZ199, màu blue nhạt là XX048. Thanh sai số chỉ giá trị SD. *** khác biệt có ý nghĩa ở p < 0.001.

Tổng quan di truyền tính kháng sâu bệnh hại sắn

 Tổng quan di truyền tính kháng sâu bệnh hại sắn

Nguồn; Valentine Otang NtuiJaindra Nath TripathiSamwel Muiruri KariukiLeena Tripathi. 2024. Cassava molecular genetics and genomics for enhanced resistance to diseases and pests. Mol Plant Pathol.; 2024 Feb; 25(2):e13432. doi: 10.1111/mpp.13432.

 

Sắn (Manihot esculenta) là một trong những nguồn cho calories quan trọng tại nhiệt đới, đóng vai trò trung tâm trong an ninh lương thực và kinh tế của biết bao nông dân sản xuất nhỏ. Sản lượng sắn bị ức chế bới tấn công của sâu bệnh hại, phổ biết là bệnh CMD (cassava mosaic disease: khảm lá sắn) và bệnh CBSD (cassava brown streak disease: bệnh sọc nâu). Những bệnh này gây ra mất năng suất lớn, ảnh hưởng đến an ninh lương thực và an sinh của nông hộ nhỏ. Phát triển giống sắn kháng bệnh là cách rất tốt để gia tăng năng suất sắn. Mặc dù người ta ta đạt được một vài mức độ tính kháng bệnh như vậy, nhưng có hiện tượng tính kháng bị phá vỡ trong bệnh CMD. Việc đánh giá lại định kỳ về tính trạng kháng bệnh như vậy  rất cần thiết để chắc chắn rằng giống kháng còn khả năng chịu được áp lực tiến hóa của sâu bệnh hại sắn. Tiếp cận phương pháp chọn giống mới như genomic-assisted selection )chọn giống nhờ tiến bộ genomics) kết hợp với kỹ thuật công nghệ sinh học như kỹ thuật di truyền kinh điển hay chỉnh sử hệ gen (genome editing) có thể thúc đẩy được sự phát triển giống sắc kháng sâu bệnh hại. Bài tổng quan này tóm tắt những kết quả  phát triển gần đây và thảo luận khả năng ứng dụng di truyền phân tử và genomics để sản xuất giống sắn cao sản kháng được sâu bệnh hại.

 

Xem https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC10788594/

 

Triệu chứng bệnh trên lá sắn: (a) cassava mosaic disease; (b) lá khỏe mạnh.

Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2024

Chỉnh sửa promoter của gen MeSWEET10a cải tiến tính kháng bệnh “bacterial blight” giống sắn SC8

 Chỉnh sửa promoter của gen MeSWEET10a cải tiến tính kháng bệnh “bacterial blight” giống sắn SC8

Nguồn: Yajie WangMengting GengRanran PanTong ZhangXiaohua LuXinghou ZhenYannian CheRuimei LiJiao LiuYinhua ChenJianchun GuoYuan Yao. 2024. Editing of the MeSWEET10a promoter yields bacterial blight resistance in cassava cultivar SC8. Molecular Plant Pathology; 29 September 2024;

https://doi.org/10.1111/mpp.70010

 

Tinh bột củ khoai mì được dùng rất phổ biến làm nguyên liệu thô cho công nghiệp và cho thực phẩm nuôi sống con người. Tuy nhiên, vi khuẩn gây bệnh CBB (cassava bacterial blight) do Xanthomonas axonopodis pv. manihotis (Xam) gây ra làm mất năng suất củ sắn nghiêm trọng và hầu hết các vùng trồng sắn trên thế giới đều bị tàn phá bởi vi khuẩn này. Xam11 là loài phụ vi khuẩn gây bệnh có nguồn gốc từ Trung Quốc đang gây bệnh nặng nề cho phía Nam TQ trên giống South China No. 8 (SC8) với triệu chứng hết sức điển hình. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng transcription activator-like effector TALE20Xam11 của chủng nòi vi khuẩn Xam11 điều tiết sự biểu hiện gen nhiễm bệnh MeSWEET10a thông qua sự gắn kết tại vùng EBETALE20 của promoter gen  MeSWEET10a thuộc giống sắn SC8. Đột biến có chủ đích nhờ hệ thống CRISPR/Cas9 tại vùng EBETALE20 cho kết quả làm giảm đáng kể sự biểu hiện của gen MeSWEET10a sau khi cho lây nhiễm vi khuẩn Xam11, tương quan với kết quả giảm triệu chứng bệnh, kích thước vết bệnh nhỏ hơn và sự phát triển của vi khuẩn giảm đáng kể so với cây nguyên thủy (wild type). Quan trọng là, nhưng cây biến đổi gen ấy duy trì được tăng trưởng và phát triển bình thường, năng suất bình thường trong điều kiện thí nghiệm nhà kính. Kết quả đặt nền tảng cho nghiên cứu và cải tiến giống sắn kháng bệnh CBB.

 

Xem https://bsppjournals.onlinelibrary.wiley.com/doi/10.1111/mpp.70010

 

Hình: Sờ đồ biểu diện dư lượng lập lại RVD (repeat variable diresidue) trong TALE20Xam11 ghi nhận EBEXam11 Trên promter của gen MeSWEET10a từ giống sắn South China No. 8. (a) Đầu C của TALE20Xam11 có hai vị trí của NLS (nuclear localization signals) và một ADD (acidic activation domain). TALE20Xam11 kích hoạt trực tiếp sự biểu hiện gen  MeSWEET10a thông qua EBE (effector-binding element). (b) SK: pGreen II62-SK vector (control vector); TALE20: pGreen II62-SK-TALE20Xam11 vector; pSWEET10a: pGreen II0800-pMeSWEET10a-LUC vector; pSWEET10a-EBE: pGreen II0800-pMeSWEET10a-EBETALE20-LUC vector (mất đoạn của EBETALE20 từ MeSWEET10a promoter). Số liệu biểu thị từ ba kết quả lập lại biological repeats (Student's t test, **p < 0.01).

Khai thác hiệu quả methyl hóa trong hệ gen sắn trong điều kiện thiếu nước tưới phục vụ cải tiến giống sắn

 Khai thác hiệu quả methyl hóa trong hệ gen sắn trong điều kiện thiếu nước tưới phục vụ cải tiến giống sắn

Nguồn: Jorge Luís Bandeira da Silva FilhoRosa Karla Nogueira PestanaWilson José da Silva JúniorMaurício Antônio Coelho FilhoClaudia Fortes FerreiraEder Jorge de OliveiraEderson Akio Kido. 2024. Exploiting DNA methylation in cassava under water deficit for crop improvement. PLoS One; 2024 Feb 22; 19(2):e0296254. doi: 10.1371/journal.pone.0296254.

 

DNA methylation (methyl hóa phân tử DNA) có vai trò then chốt trong phát triển thực vật và phản ứng cây khi bị stress sinh học và phi sinh học. Công trình khoa học này nhằm đánh giá mức độ DNA methylation khi so sánh các giống sắn chống chịu với khô hạn. Các giống BRS Formosa (sắn đắng) và BRS Dourada (sắn ngọt) được trồng trong nhà kính 50 ngày, sau đó, không tưới nước. Cây stressed (thiếu nước) và cây non-stressed (đối chứng) trong nghiệm thức xử lý bao gồm 5 cây/giống. Mẫu DNA của mỗi giống và trong từng nghiệm thức cho thấy có 12 MethylRAD-Seq libraries (hai giống sắn, hai nghiệm thức, ba lần nhắc lại).

 

Số liệu trình tự DNA cho thấy các vị trí bị methyl hóa phủ trên 18 - 21% của hệ gen cây  Manihot esculenta Crantz, tùy theo giống sắn và tùy theo nghiệm thức. Vị trí CCGG bị methyl hóa định vị trên bản đồ di truyền tại vùng có tính chất “intergenic”, vùng exons, và introns, trong khi đó, vị trí CCNGG định vị trên bản đồ di truyền hầu như ở vùng “intergenic”, vùng upstream, introns, và exons. Trong cả hai trường hợp, vị trí methyl hóa tại vùng UTRs ít thấy hơn. Các vị trí khác biệt chức năng có tính chất methyl hóa cho thấy phổ biểu hiện methyl hóa khác biệt nhau vì chỉ có 12% vị trí này (CCGG và CCNGG) được methyl hóa trong cả hai giống sắn. Các thuật ngữ bản thể gen rất phong phú nhấn mạnh phản ứng ngay lập tức trong giống sắn đắng khi bị stress, trong khi đó, giống sắn ngọt biểu thị sự chịu đựng tốt hơn khi bị tổn thương. Tương tác protein-protein được dự đoán củng cố phổ biểu hiện như nói trên. Như vậy, các genomes của giống sắn BRS chưa được khám phá SNPs/INDELs bao gồm các gen nổi bật nhờ interactomes. Số liệu này có thể hữu ích trong việc giải mã vai trò bí ẩn của DNA methylation trong hệ gen cây sắn khi phản ứng chịu khô hạn và thích ứng với stress phi sinh học

 

Xem https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/38386677/

Tối ưu hóa kỹ thuật ghép cây sắn (Manihot esculenta Crantz) tăng cường tính thích nghi với kỹ thuật canh tác

 Tối ưu hóa kỹ thuật ghép cây sắn (Manihot esculenta Crantz) tăng cường tính thích nghi với kỹ thuật canh tác

Nguồn: Frank Opoku-AgyemangJacqueline Naalamle AmissahStella Owusu-NketiaPeter Amoako OforiMichitaka Notaguchi. 2024. Optimization of cassava (Manihot esculenta Crantz) grafting technique to enhance its adoption in cassava cultivation. MethodsX; 2024 Aug 19: 13:102904. doi: 10.1016/j.mex.2024.102904. 

 

Kỹ thuật ghép vô tính (grafting techniques) đã và đang được áp dụng thành công để cải tiến tính kháng với stress sinh học hoặc phi sinh học, làm tăng năng suất, phẩm chất củ sắn và nghiên cứu  sự truyền tín hiệu có hệ thống trong thực vật. Kỹ thuật không những phổ biến trong cây sắn mà còn được chuẩn hóa phương pháp cho loài cây cây trồng này đặc biệt ở châu Phi.

 

Đây là báo cáo đầu tiên về ghép vô tính cây sắn tại châu Phi với những thuận lợi đáng giá, gồm có việc sử dụng một buồng ghép bằng gỗ thân thiện với môi trường, vô cùng hiệu quả. Theo đó, người ta phác thảo một quy trình ghép hở tối ưu đối với cây sắn; thông qua “wooden healing chamber” (buồng ghép bằng gỗ) và quy trình theo từng bước, với điều kiện tối hảo để tạo ra sự thành công rất cao trong ghép vô tính. Sử dụng kỹ thuật ghép nêm trên đỉnh (top wedge grafting) với khả năng tái sản xuất giống cây cao, tỷ lệ thành công lớn, người ta đã phát triển được một quy trình ghép rất đơn giản và mạnh mẽ trong lĩnh vực nhân giống sắn (M. esculenta). Thành công trong “grafting” được báo cáo và quy trình này đã nhân ra được kết quả thành công đến 90 %; khả năng tái tạo rất cao của nó làm tiền đề “mass production” (sản xuất đại trà), nhờ vậy, giải quyết được nhu cầu nhân giống cây sắn hiệu quả. Quy trình này cần rất ít côn cụ đặc biệt và giúp nông dân dễ dàng tiếp cận chuyên môn; nhà nghiên cứu không cần nguồn chi phí đầu tư lớn để phát triển việc sử dụng “grafting” phục vụ tăng diện tích trồng sắn, cải tiến năng suất và thực hiện những nghiên cứu chuyên sâu về tín hiệu theo khoảng cách xa có tinh hệ thống của thực vật. Tối ưu hóa phương pháp ghép hở (cleft grafting) thu được tỷ lệ thành công trong ghép cây rất lớn. Một “wooden healing chamber” (phòng chữa thương bằng gỗ) kiểm soát được điều kiện ngoại cảnh tối hảo đối với “graft healing” (thương tổn khi ghép). Mở rộng kỹ thuật ghép sắn như vậy; người ta ưu tiên sản xuất giống sắn mới và khia thác được thành tựu khoa học chọn giống.

 

Xem https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/39258290/

Phân tích chức năng và phổ biểu hiện của gen MebHLH149 phản ứng với sự xâm nhiễm bệnh “Cassava Bacterial Blight” của cây sắn (Manihot esculenta Crantz)

 Phân tích chức năng và phổ biểu hiện của gen MebHLH149 phản ứng với sự xâm nhiễm bệnh “Cassava Bacterial Blight” của cây sắn (Manihot esculenta Crantz)

Nguồn: Min CuiFeifei AnSongbi ChenXindao Qin. 2024. Expression Pattern and Functional Analysis of MebHLH149 Gene in Response to Cassava Bacterial Blight. Plants (Basel); 2024 Aug 30; 13(17):2422. doi: 10.3390/plants13172422.

 

Sự suy giảm đáng kể năng suất củ sắn (Manihot esculenta Crantz) do bệnh CBB (cassava bacterial blight) là vấn đề cấp bách cần được quan tâm. Kết quả nghiên cứu tập trung vào yếu tố phiên mã TF có tên MebHLH149, rất tích cực khi có bệnh CBB xâm nhiễm và biểu hiện ở mức độ cao, cho thấy trong dữ liệu transcriptome. Khai thác của chúng tôi bao gồm chủng nòi vi khuẩn CHN01 Xanthomonas phaseoli pv. manihotis  (Xpm CHN01) và stres của hormone, cho thấy gen MebHLH149 tương tác với pathogen này và giai đoạn xâm nhiễm đầu tiên. Hơn nữa, gen MebHLH149 được tìm thấy phản ứng với abscisic acid (ABA), methyl jasmonate (MeJA), và salicylic acid (SA), biểu hiện vai trò tiềm năng trong sự truyền tín hiệu bởi hormones thực vật. Phân tích định vị của các protein trong tế bào cho thấy MebHLH149 ưu tiên có trong nhân. Thông qua xét nghiệm VIGS (virus-induced gene silencing) trong cây sắn, những cây bị câm gen MebHLH149 đều có kết quả nhiễm bệnh nặng hơn, tích tụ ROS ít hơn, diện tích đốm lá sắn to hơn đáng kể so với đối chứng. Proteins MePRE5 và MePRE6, được dự đoán có tương tác với MebHLH149, đã được minh chứng rằng điều tiết theo kiểu “down” khi phản ứng với nghiệm thức câm gen và “up” với nghiệm thực biểu hiện mạnh mẽ gen đích MebHLH149. Đây là tương tác tiềm năng giữa MebHLH149 và protein nói trên. Cả hai gen MePRE5 và MePRE6 đều có mặt trong phản ứng miễn dịch đầu tiên với bệnh CBB. Chú ý, MebHLH149 được xác định là một protein tương tác với MePRE5 và MePRE6. Theo đó, người ta giả thuyết rằng gen MebHLH149 có chức năng là một regulator tích cực trong cơ chế bảo vệ cây sắn chống lại bệnh CBB.

 

Xem https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/39273906/

Phân lập toàn hệ gen và khai thác cơ sở dữ liệu liên quan đến MLP (major-latex protein) từ họ protein PR-10 với chức năng bảo vệ cây kháng lại “phytopathogen” trong cây sắn (Manihot esculenta Crantz)

 Phân lập toàn hệ gen và khai thác cơ sở dữ liệu liên quan đến MLP (major-latex protein) từ họ protein PR-10 với chức năng bảo vệ cây kháng lại “phytopathogen” trong cây sắn (Manihot esculenta Crantz)

Nguồn: Unchera ViboonjunRawit Longsaward. 2024. Genome-wide identification and data mining reveals major-latex protein (MLP) from the PR-10 protein family played defense-related roles against phytopathogenic challenges in cassava (Manihot esculenta Crantz). Genetica; 2024 Aug 31. doi: 10.1007/s10709-024-00211-6. Online ahead of print

Dù đã được xác định từ nhiều công trình trước đây, nhưng protein PR-10 vẫn còn bị bỏ qua một cách tương đối, vẫn chưa được mô tả đầy đủ ở nhiều loài cây trồng. Nghiên cứu này khai thác một cơ sở dữ liệu đầy đủ, tiếp cận với phương pháp khai thác số liệu in silico định tính họ protein PR-10 trong cây sắn - loài cây trồng mang sự sống cho nhiều người trên thế giới. Người ta tập trung vào việc xác định in silico 53 protein PR-10 của sắn, chúng có thể được thành hai nhóm phụ (subgroups): 34 thuộc major latex proteins (MLPs) và 13 thuộc major allergen proteins, Pru ar 1, trên cơ sở tương quan di truyền huyết thống của chúng. Phân tích “collinearity” (tương đồng) hệ gen sắn với hệ gen cây cao su cho thấy có môi tương quan đồng dạng về tiến hóa  của gen PR-10 giữa hai loài Euphorbiaceae này, đặc biệt là nhiễm sắc thể 15. Chú ý, MLP423 và những protein MLP được xác định theo dữ liệu khác nhau của transcriptome hệ gen cây sắn khi phản ứng với stress sinh học đối với nhiều nguồn sinh vật gây bệnh khác nhau, bao gồm nấm gây anthracnose, viruses, và bacterial blight. Dự đoán phân tử “ligand” (tín hiệu vi sinh xâm nhiễm) và sự lắp ghép phân tử của 3 protein MLP423 cho thấy tính tương tác đầy tiềm năng giữa cytokinin và abscisic acid. Sự biểu hiện của chúng và mối quan hệ ràng buộc theo dự đoán được người ta thảo luận. Kết quả phác họa được vai trò của chúng như những contributors trong hệ thống bảo vệ cây sắn đối với bệnh hại chính.

 

See https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/39215788/

HLH20-0047 giống sắn triển vọng kháng khảm lá, năng suất cao

 HLH20-0047 giống sắn triển vọng kháng khảm lá, năng suất cao

Giống sắn mới không chỉ kháng tuyệt đối với bệnh khám lá mà còn có khả năng kháng bệnh chổi rồng, cho năng suất, chữ bột rất cao.

 

Sau hơn 4 năm nỗ lực, Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc (Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam) và Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT) phối hợp cùng với Sở NN-PTNT tỉnh Tây Ninh đã khảo nghiệm thành công 2 giống sắn kháng bệnh khảm lá đầu tiên là HN3, HN5, tiếp đó là các giống sắn HN1, HN36, HN80, HN97 có khả năng kháng tuyệt đối bệnh khảm lá, đã được Bộ NN-PTNT công nhận.

 

Tiếp nối những thành công trên, mới đây, qua công tác khảo nghiệm từ 10.000 hạt lai các giống sắn có gen kháng bệnh khảm lá sắn và một số bệnh hại khác tại tỉnh Tây Ninh, Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc đã tiếp tục chọn được giống sắn HLH20-0047. Đây là loại giống được đánh giá ưu việt nhất từ trước đến nay bởi không chỉ kháng 100% bệnh khảm lá mà còn có năng suất, chữ bột cao và kháng được các bệnh nguy hiểm khác như bệnh chổi rồng trên cây sắn.

 

Chúng tôi có dịp theo chân Thạc sĩ Phạm Thị Nhạn, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc đến thăm khu vực khảo nghiệm tại huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh. Dù đã được tiếp cận các giống HN3, HN5 HN1, HN 36, HN80, HN97, nhưng khi nhìn thấy giống sắn HLH20-0047, chúng tôi hết sức ấn tượng. Mỗi bụi sắn chỉ một cây duy nhất cao chót vót, lá thẳng tắp. Khi nhổ một cây lên kiểm tra, hàng chục củ sắn to, dài nằm chi chít, ước trọng lượng trên 5kg/cây.

 

Nói về công tác khảo nghiệm, Thạc sĩ Nhạn chia sẻ, trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, đã ảnh hưởng không nhỏ gây thoái hoá giống nói chung và giống sắn nói riêng, do đó, dù đã chọn được 6 giống sắn mới và được công bố, công tác khảo nghiệm vẫn được thực hiện thường xuyên, liên tục. Bởi để có được một giống mới ưu việt, công tác nghiên cứu, khảo nghiệm phải qua rất nhiều bước và mất rất nhiều thời gian, trung bình phải mất ít nhất 3 đến 5 năm mới tuyển chọn ra giống được công nhận.

 

Đơn cử như giống HLH20-0047, từ năm 2020 Trung tâm đã đưa 10.000 hạt lai các giống sắn triển vọng vào thực nghiệm. Mỗi năm có 3.000 đến 5.000 dòng được chọn để đánh giá, qua đó đã chọn được 3 - 4 giống đáp ứng được các tiêu chí kháng bệnh và cho năng suất, hàm lượng tinh bột cao để đem ra trồng thực địa, tiếp tục đánh giá toàn diện. May mắn giống HLH20-0047 hội tủ đủ các tiêu chuẩn, tiêu chí giống mới đặt ra.

 

“Qua đánh giá ban đầu, trong điều kiện canh tác bình thường, giống HLH20-0047 có thể đạt năng suất từ 35 cho đến 45 tấn/ha. Trong điều kiện thâm canh, có tưới đầy đủ như ở Tây Ninh có thể đạt 45 đến 55 tấn/ha; hàm lượng tinh bột có thể đạt 29 - 30%. Đặc biệt, ngoài kháng 100% bệnh khảm lá, giống này còn có khả năng kháng bệnh chổi rồng và có thể canh tác được ở điều kiện thổ nhưỡng bất lợi như ở vùng bán ngập… Có thể khẳng định, giống này đáp ứng được tất cả mong muốn của ngành sắn hiện nay. Chúng tôi đang hoàn thiện hồ sơ đề nghị Bộ NN-PTNT công nhận”, Thạc sĩ Phạm Thị Nhạn thông tin.

 

TS Nguyễn Hải Anh, Phó Trưởng phòng Khoa học và Hợp tác quốc tế (Viện Di truyền Nông nghiệp) cho biết thêm, thời gian qua, Viện đã tích cực phối hợp cùng các đơn vị trong nước cũng như tổ chức quốc tế để tuyển chọn được 6 giống sắn kháng bệnh khảm lá và đã được công nhận ở vùng Đông Nam bộ.

 

Đối với việc tiếp tục tìm ra giống HLH20-0047, niềm vui này không chỉ cho riêng Tây Ninh mà còn với cả ngành nông nghiệp, triển vọng đẩy lùi bệnh khảm lá sắn.

 

“Bên cạnh công tác phối hợp tìm và phát triển các giống sắn mới, thời gian tới, Viện Di truyền nông nghiệp cũng sẽ phối hợp với các đơn vị quốc tế cũng như trong nước để nghiên cứu quy trình canh tác sắn bền vững. Đây là vấn đề ngành sắn cần quan tâm để không chỉ hạn chế thoái hoá giống mà còn giúp cải thiện được sức khỏe đất, nâng cao năng suất, chữ bột”, TS Nguyễn Hải Anh nhấn mạnh.

 

Trần Trung, Lê Bình

Thứ Hai, 5 tháng 8, 2024

Các mục tiêu gen tiềm năng để quản lý ruồi trắng trên sắn, một loại côn trùng truyền virus gây bệnh đe dọa an ninh lương thực

  Các mục tiêu gen tiềm năng để quản lý ruồi trắng trên sắn, một loại côn trùng truyền virus gây bệnh đe dọa an ninh lương thực

(a) Vị trí của các tế bào vi khuẩn trong bụng của ruồi trắng và (b) Ruột đã được cắt ra (cơ quan giống như ống trong suốt) và tế bào vi khuẩn (tế bào màu vàng) chứa nội sinh vật sơ cấp. Nguồn: PeerJ (2024). DOI: 10.7717/peerj.16949.

 

Ruồi trắng, đặc biệt là ruồi trắng sắn châu Phi (Bemisia tabaci, SSA1-SG1), gây ra mối đe dọa đáng kể đối với năng suất nông nghiệp ở châu Phi cận Sahara bằng cách truyền virus gây bệnh sọc nâu sắn và bệnh virus khảm sắn. Trong một nghiên cứu mới được công bố trên PeerJ , tiến sỹ Tadeo Kaweesi và nhóm của ông tại Tổ chức Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc gia đã xác định các mục tiêu gen tiềm năng có thể cách mạng hóa việc quản lý loài gây hại tàn khốc này và chứng tỏ tầm quan trọng đối với an ninh lương thực trong khu vực.

 

Trong bài báo có tiêu đề “Dự đoán in silico về các mục tiêu gen đề xuất để quản lý ruồi trắng sắn châu Phi (Bemisia tabaci, SSA1-SG1)”, các nhà nghiên cứu mô tả việc sử dụng các phương pháp tính toán tiên tiến để xác định các gen quan trọng cho quá trình điều hòa thẩm thấu và cộng sinh trong ruột và tế bào vi khuẩn của ruồi trắng sắn. Bằng cách so sánh các cấu hình biểu hiện gen thông qua phân tích RNAseq và tiến hành phân tích tái tạo gen và trao đổi chất, nhóm nghiên cứu đã xác định được bảy mục tiêu gen quan trọng với biểu hiện phong phú trong các cơ quan mục tiêu.

 

Nghiên cứu nhấn mạnh ba gen điều hòa thẩm thấu - AQP1, SUC1 và SUC2 - liên quan đến quá trình thủy phân sucrose và chu trình nước, và bốn gen cộng sinh argH, lysA, BCAT và dapB - cần thiết cho quá trình sinh tổng hợp axit amin. Những gen này đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quá trình sinh lý quan trọng cho sự sống sót của bướm trắng sắn.

 

Ảnh hưởng của ruồi trắng – Triệu chứng bệnh sọc nâu trên sắn. Nguồn: PeerJ (2024). DOI: 10.7717/peerj.16949.

 

Việc xác định các mục tiêu gen này mở ra con đường mới cho việc phát triển các chiến lược quản lý mới chống lại bọ phấn trắng trên sắn. Bằng cách nhắm mục tiêu vào các gen này, các nhà nghiên cứu không chỉ nhằm mục đích giảm thiệt hại trực tiếp cho việc ăn mà còn giảm thiểu sự lây lan của các bệnh do virus, cuối cùng là bảo vệ an ninh lương thực cho hàng triệu người ở châu Phi cận Sahara.

 

Các bước tiếp theo liên quan đến việc đánh giá sâu hơn về tác động của việc nhắm mục tiêu vào các gen này, riêng lẻ hoặc kết hợp, đối với sự phát triển và sự sống sót của B. tabaci. Gen hoặc tổ hợp gen hiệu quả nhất sẽ được tích hợp vào cây chuyển gen để sử dụng trong các chương trình quản lý bọ phấn trắng toàn diện ở các vùng trồng sắn.

 

Đỗ Thị Nhạn theo Phys.org

Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2024

Cải tiến khả năng kháng bệnh sọc nâu trên cây sắn

 Cải tiến khả năng kháng bệnh sọc nâu trên cây sắn

Triệu chứng bệnh sọc nâu trên cây sắn. (a) Lá bị úa vàng mà không làm biến dạng phiến lá và vết bệnh màu nâu trên thân xanh. (b) Sự thắt lại của rễ củ sắn. (c) Rễ củ sắn bị hoại tử nhẹ. (d) Rễ củ sắn bị hoại tử nặng. Nguồn: Tropical Plants (2024). DOI: 10.48130/tp-0024-0006.

 

Một nhóm nghiên cứu đã xem xét những tiến bộ trong việc quản lý bệnh sọc nâu trên sắn (CBSD), nhấn mạnh việc tích hợp các công nghệ nhân giống cây trồng mới (NPBTs) với nhân giống truyền thống để tăng cường khả năng kháng bệnh. Những nỗ lực này rất quan trọng để cung cấp cho nông dân châu Phi những giống sắn kháng CBSD, mang lại năng suất cao và đáp ứng nhu cầu thị trường.

 

Nhóm cũng ủng hộ mạng lưới hợp tác của các nhà tạo giống châu Phi, tiếp cận công nghệ hiện đại, tăng cường năng lực của các bên liên quan, kiểm soát sự di chuyển vật liệu trồng và đưa tính trạng xâm nhập hiệu quả vào các chương trình nhân giống để đạt được các mục tiêu này. Bài báo được công bố trên tạp chí Tropical Plants.

 

Sắn, cây lương thực cho 800 triệu người, chủ yếu được trồng ở hơn 100 quốc gia nhiệt đới và cận nhiệt đới, đang phải đối mặt với những thách thức đáng kể về năng suất do bệnh sọc nâu sắn (CBSD), đặc biệt là ở Châu Phi, nơi sản xuất tụt hậu đáng kể so với năng suất tiềm năng.

 

Bất chấp khả năng phục hồi của sắn trong điều kiện khắc nghiệt và hàm lượng tinh bột đáng kể, CBSD đã cản trở đáng kể năng suất. Nghiên cứu hiện tại tập trung vào việc nhân giống các giống kháng CBSD thông qua các công nghệ nhân giống cây trồng truyền thống và mới (NPBTs), tuy nhiên các vấn đề như sự suy giảm tính kháng ở các giống đã từng kháng bệnh và nhu cầu phân phối vật liệu trồng bền vững, sạch bệnh vẫn rất quan trọng.

 

Một nghiên cứu phác thảo các chiến lược nhân giống hiện có để chống lại CBSD và nhấn mạnh lợi ích của việc kết hợp NPBTs để nhanh chóng phát triển và phân phối các giống sắn kháng CBSD cho nông dân châu Phi.

 

Bài tổng quan đầu tiên giới thiệu rằng sắn là cây trồng có tính dị hợp tử cao, thường được nhân giống vô tính bằng cách giâm cành hoặc hệ thống nuôi cấy mô. Do đặc điểm nguyên mẫu, lưỡng tính và chủ yếu là thụ tinh lai ở cây sắn nên việc kiểm soát sự thụ phấn có thể sinh ra con đầy đủ.

 

Tuy nhiên, những thách thức nảy sinh do tính dị hợp tử cao của cây trồng và sự nhạy cảm với môi trường trong quá trình ra hoa của nó, làm phức tạp các nỗ lực nhân giống có kiểm soát. Tác giả đã trình bày chi tiết các phương pháp sàng lọc nguồn gen kháng CBSD của sắn trong hai điều kiện khác nhau là ngoài đồng và nhà kính.

 

Nhấn mạnh vai trò quan trọng của NPBTs, đánh giá ủng hộ việc lồng ghép chúng vào các chương trình nhân giống sắn để đẩy nhanh quá trình phát triển các giống kháng CBSD. Bằng cách tận dụng cả kỹ thuật nhân giống truyền thống và hiện đại, đánh giá nhấn mạnh sự cần thiết phải có cách tiếp cận nhiều mặt để vượt qua các thách thức nhân giống và cải thiện khả năng phục hồi và năng suất của sắn trong các môi trường khác nhau.

 

Theo nhà nghiên cứu, giáo sư Hong-Bin Zhang: "CBSD vẫn là một hạn chế quan trọng đối với sản xuất sắn ở Đông và Trung Phi. Những nỗ lực phát triển tính kháng CBSD sẽ cần phải là một phần quan trọng trong các phương pháp nhân giống hiện đại nhằm phát triển các giống cải tiến".

 

Nhìn chung, tổng quan này khám phá khả năng sinh sản phức tạp của sắn , nhấn mạnh đến việc tích hợp các công nghệ nhân giống cây trồng mới để tăng cường phát triển các giống kháng bệnh và giải quyết các thách thức về đa dạng di truyền và tính nhạy cảm với môi trường trong các chương trình nhân giống.

 

Đỗ Thị Nhạn theo Phys.org

Sàng lọc kiểu hình bổ sung nhờ chỉ thị phân tử ở giai đoạn cây con của sắn thuộc tập đoạn giống Phi Châu

 Sàng lọc kiểu hình bổ sung nhờ chỉ thị phân tử ở giai đoạn cây con của sắn thuộc tập đoạn giống Phi Châu

Nguồn: Bunmi OlasanmiMartina KyalloNasser Yao. 2024. Marker-assisted selection complements phenotypic screening at seedling stage to identify cassava mosaic disease-resistant genotypes in African cassava populations. Sci Rep.; 2021 Feb 2; 11(1):2850. doi: 10.1038/s41598-021-82360-8.

 

Bệnh khảm lá sắn (CMD) là nguy cơ rất nặng trong sản xuất sắn ở vùng cận  Saharan. Việc sử dụng genomic-assisted selection (chọn giống nhờ genomics) ở giai đoạn cây non có thể giúp nhà chọn giống tiết kiệm thời gian phóng thích giống mới, giảm chi phí, và sử dụng nguồn vật liệu bố mẹ d0 đó, làm tăng hiệu quả chọn lọc trong chương trình cải tiến giống sắn. 5 quần thể sắn được thanh lọc với tính kháng bệnh CMD trong đánh giá cây sắn non theo nghiệm thứ 1, 3, và 5 tháng tuổi sau khi trồng; thanh điểm ghi nhận 1-5. Các dòng giống sắn thuộc 5 quần thể này được thanh lọc thông qua 6  markers phân tử liên kết chặt với gen CMD2. Tương quan giữamarker và kiểu hình đã được ước đoán. Trên cơ sở CMDSS (Cassava Mosaic Disease Severity Score), giữa cây con có tỷ lệ 53 và 82%  kháng bệnh đạt mức trung bình 70.5%. Khoảng 0% cây con được xác định kháng bệnh đạt tỷ lệ 62-80% khi sử dụng marker data. Vói marker data và CMDSS được kết hợp, có 40-60% cây con thuộc từng quần thể, đạ trung bình 52%, cây kháng bệnh CMD. Có tương quan chặt chẽ giữa marker data và CMDSS trong các quần thể sắn với hệ số tương quan 0.2024 - 0.3460 cho thấy rằng các gen mới  không gắn được với markers kháng bệnh CMD. Dòng giống kháng được xác định trong nghiên cứu này với khả năng biểu hiện tính trạng nông học mong muốn  đã được chọn ở thời điểm thuận lợi nhất, nhờ vậy, rýt ngắn được thời gian cải tiến giống.

 

Xem https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/33531574/

Nghiên cứu transcriptomic về vai trò của MeFtsZ2-1 trong tích lũy sắc tố trên lá sắn

 Nghiên cứu transcriptomic về vai trò của MeFtsZ2-1 trong tích lũy sắc tố trên lá sắn

Nguồn: Yuwei ZangKunlin WuLiangwang LiuFangfang RanChangyi WangShuwen Wu 1Dayong WangJianchun GuoYi Min. 2024. Transcriptomic study of the role of MeFtsZ2-1 in pigment accumulation in cassava leaves. BMC Genomics; 2024 May 7; 25(1):448. doi: 10.1186/s12864-024-10165-w.

 

MeFtsZ2-1 là một gen đích đối với phân chia plastid trong thực vật, nhưng cơ chế này bởi ảnh hưởng của MeFtsZ2-1 đến tích lũy sắc tố trong cây sắn (Manihot esculenta Crantz) thông qua plastids vẫn chưa rõ ràng. Người ta thấy: khi gen MeFtsZ2-1 biểu hiện mạnh mẽ trong cây sắn, chúng sẽ có màu sắc đậm hơn ở lá sắn, với hàm lượng gia tăng của anthocyanins  carotenoids. Quan sát kỹ hơn, thông qua công cụ TEM (Transmission Electron Microscopy) cho thấy không  có thiếu sót tạm thời nào về cấu trúc thể lạp (chloroplast) nhưng có sự gia tăng số lượng plastoglobule trong lá sắn của cây có biểu hiện gen đích mạnh mẽ. Kết quả RNA-seq cho thấy: có 1582 gen DEGS (differentially expressed genes) trong lá sắn cây biểu hiện gen đích mạnh. Phân tích KEGG pathway cho thấy rằng: những gen DEGs này có rất nhiều trong tiến trình liên quan đến tổng hợp flavonoid, anthocyanin, và carotenoid. Nghiên cứu còn nói đến chức năng của gen MeFtsZ2-1 trong tích lũy sắc tố của cây sắn từ kết quả phân tích sinh lý và  phân tích transcriptomic, ngần ấy cung cấp một luận điểm khoa học lý thuyết để cải tiến tính trạng phẩm chất của sắn.

 

Xem https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/38802758/