CÂY SẮN VIỆT NAM

Thứ Ba, 16 tháng 2, 2021

2016. Vũ Thúy Nga. Nghiên cứu tạo chế phẩm vi sinh vật xử lý nước thải chế biến tinh bột sắn

Nghiên cứu tạo chế phẩm vi sinh vật xử lý nước thải chế biến tinh bột sắn 

 DOWNLOAD

GIỚI THIỆU

Chế biến tinh bột sắn là ngành công nghiệp phát sinh lượng lớn nước thải. Lượng nước thải sinh ra trong quá trình chế biến tinh bột sắn trung bình 12-20m3/tấn sản phẩm/ngày (Huỳnh Ngọc Phương Mai, 2006). Trong nước thải chế biến tinh bột sắn thường có thành phần chất rắn lơ lửng cao do bột và xơ củ sắn sót lại, nhu cầu oxy sinh hóa (BOD) và nhu cầu oxy hóa học (COD) có nồng độ cao hàng chục ngàn mg/l gây khó khăn cho quá trình xử lý sinh học.


2018. Nguyễn Đình Tráng. Tác động của việc trồng sắn cho sản xuất nhiên liệu sinh học đến đa dạng sinh học trong cảnh quan tại Việt Nam

 Tác động của việc trồng sắn cho sản xuất nhiên liệu sinh học đến đa dạng sinh học trong cảnh quan: tổng quan tại Việt Nam

DOWNLOAD

TÓM TẮT

Sản xuất ethanol sinh học tại Việt Nam chủ yếu dựa trên nguyên liệu sắn. Nghiên cứu này tiến hành rà soát tác động của việc mở rộng trồng sắn nguyên liệu cho sản xuất ethanol sinh học đến đa dạng sinh học trong cảnh quan. Theo dõi trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2015 chỉ ra rằng diện tích sắn của Việt Nam đã tăng lên khoảng 71.000 ha. Tuy nhiên, sự mở rộng diện tích trồng sắn dường như không bắt nguồn từ chuyển đổi diện tích khu bảo tồn, khu vực có giá trị đa dạng sinh học cao và có thể khẳng định rằng sự gia tăng diện tích sắn trong giai đoạn này hầu như không do sản xuất ethanol sinh học. Liên quan đến tác động đến đa dạng sinh học, một số thực tiễn tốt trong canh tác sắn với phương pháp bảo tồn trên đất dốc tại một số địa phương đã mang lại tác động tích cực đến hệ sinh thái đất và cảnh quan. Dẫu vậy, các tác động tiêu cực đến đa dạng sinh học trong cảnh quan từ việc mở rộng diện tích trồng sắn nguyên liệu chưa được xác định rõ rệt.

 

Thứ Hai, 8 tháng 2, 2021

Thúc đẩy nhanh việc cải tiến giống sắn có hàm lượng vitamin A

 Thúc đẩy nhanh việc cải tiến giống sắn có hàm lượng vitamin A


Các nhà khoa học thuộc Đại Học Quốc Gia Colombia và CIAT (International Center for Tropical Agriculture) đã tìm được phương pháp theo dõi nhanh nội dung cải tiến giá trị vitamin A trong sắn từ 8 năm xuống còn 3 năm. Trên cơ sở di truyền tính trạng carotenoids trong rễ sắn khá cao, các nhà nghiên cứu đã thực hiện một sự cải biên có tính chất mạnh mẽ hơn về sơ đồ lai tạo của giống sắn với công cụ chọn lọc tái tục theo chu kỳ nhanh (rapid cycling recurrent selection tool). Kết quả đã làm tăng đáng kể hàm lượng vitamin A trong sắn. Tính kháng bệnh có tính di truyền cao chẳng hạn, cũng được trắc nghiệm rất nhanh. Xem  http://www.ciatnews.cgiar.org/2013/10/08/fast-tracking-nutrition-a-magical-discovery/?utm_source=rss&utm_medium=rss&utm_campaign=fast-tracking-nutrition-a-magical-discovery.

Thứ Bảy, 6 tháng 2, 2021

Phương pháp mới giúp tăng cường sản xuất thực phẩm và năng lượng sinh học từ sắn

Phương pháp mới giúp tăng cường sản xuất thực phẩm và năng lượng sinh học từ sắn

Các phương pháp sử dụng tinh bột từ sắn mới có thể cung cấp thực phẩm cho thêm 30 triệu người mà không cần phải lấy thêm đất canh tác hiện nay.

Tính đến năm 2030, con số này sẽ là 100 triệu người. Ngoài ra, cùng một mảnh đất cũng có thể góp phần giúp tăng cường sản xuất năng lượng sinh học. Điều này được thể hiện trong một nghiên cứu mới đây của các nhà nghiên cứu tại trường Đại học Khoa học Nông nghiệp Thụy Điển (SLU) và trường Đại học Nông nghiệp Trung Quốc (CAU).

Sắn hay còn gọi là khoai mì (Manihot esculenta crantz) hiện đang được trồng rộng rãi bởi loài cây này có hàm lượng tinh bột cao. Loại củ lớn rất giàu tinh bột và được chế biến thành bột mì hoặc bột hòn (bột sắn). Đây là thực phẩm chính của khoảng 0,5-1 tỉ người sống ở châu Phi, châu Mỹ Latinh và châu Á. Loài cây này được trồng trên diện tích khoảng 19 triệu ha.

Ngoài ra còn có những lợi ích lớn để tăng sử dụng tinh bột sắn dùng trong công nghiệp. Điều này có thể làm giảm lượng thực phẩm hoặc khiến cho nhiều diện tích đất sẽ được tận dụng cho sản xuất sắn. Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học Khoa học Nông nghiệp Thụy Điển (SLU)  và trường Đại học Nông nghiệp Trung Quốc (CAU) đã phát hiện ra rằng phần thân cây bị bỏ đi có chứa một lượng tinh bột lớn đáng ngạc nhiên, lên đến 30% trọng lượng khô. Trong quá trình sản xuất hiện nay, thân cây sắn được loại bỏ khỏi đồn điền trồng và được coi là một vấn đề về chất thải.

Với các công nghệ đơn giản dựa vào nguồn nước, lên đến 15% trọng lượng khô của tinh bột từ thân cây có thể được chiết xuất ra. Nếu lượng tinh bột này có thể được sử dụng cho mục đích sản xuất công nghiệp, tinh bột từ rễ củ trước đây được sử dụng trong công nghiệp có thể cung cấp thức ăn cho thêm 30 triệu người trên thế giới ngày nay và cho gần 100 triệu người trong năm 2030.

Nghiên cứu cũng cho thấy, phần còn sót lại và quá trình tách tinh bột từ thân cây có thể được sử dụng để sản xuất nhiên liệu sinh học (nhiên liệu rắn và khí sinh học) đồng thời mang lại giá trị gia tăng lớn. Nếu không có sự gia tăng trong việc sử dụng đất thì các nhà nghiên cứu sẽ cho thấy rằng, kết hợp giữa thực phẩm và năng lượng sinh học có thể góp phần cho sự phát triển bền vững, chống suy dinh dưỡng và chống đói nghèo trên toàn cầu.

Có tiềm năng lớn cho những ý tưởng mới về việc sử dụng thân cây sắn như một mặt hàng công nghiệp chứ không phải như hiện nay chỉ là một vấn đề về rác thải. “Chúng tôi đã thực sự ngạc nhiên khi thấy một lượng tinh bột dinh dưỡng lớn như vậy như trong sinh khối của phần còn sót lại của cây sắn, chủ yếu được lưu trữ trong các mô xylem của thân cây”, phó giáo sư Shaojun Xiong - người đứng đầu nghiên cứu trong lĩnh vực này cho biết.

Nghiên cứu được đăng tải trên số ra mới nhất của tạp chí Global Change Biology Bioenergy.

Thứ Sáu, 5 tháng 2, 2021

Ra mắt giống sắn giàu Vitamin A tại Nigeria

 Ra mắt giống sắn giàu Vitamin A tại Nigeria

Sắn giàu Vitamin A được chính thức ra mắt tại Nigeria ngày 31/7 theo Chương trình chuyển đổi nông nghiệp của Chính phủ Liên bang. Bộ trưởng Nông nghiệp Tiến sĩ Akin Adesina và đại diện của Bộ Y tế chủ tọa sự kiện diễn ra tại bang Akwa-Ibom có sự tham gia của hơn 2.000 nông dân và các bên liên quan khác về nông nghiệp, dinh dưỡng và phát triển. Ba giống sắn giới thiểu là sản phẩm của sự hợp tác giữa Viện Quốc tế về nông nghiệp nhiệt đới (IITA) và Viện nghiên cứu cây có củ quốc gia Nigeria (NRCRI) theo chương trình HarvestPlus.

Paul Ilona, Giám đốc HarvestPlus Nigeria tham dự lễ ra mắt và nói "Lễ ra mắt cấp quốc gia là một sự công nhận các cây lương thực biofortified chính  như sắn giàu vitamin A có thể tạo thành một thành phần quan trọng trong chiến lược cải thiện các kết quả về dinh dưỡng và sức khỏe cộng đồng ở Nigeria ".

Trong năm năm tới, HarvestPlus sẽ tiếp tục làm việc với Chính phủ, nông dân và khu vực tư nhân để tăng đáng kể việc phổ biến sắn giàu vitamin A tại Nigeria. Mục tiêu là 10 triệu người Nigeria trồng và tiêu thụ sắn giàu vitamin A vào năm 2018.

Xem thêm tại: http://www.harvestplus.org/content/vitamin-cassava-dissemination-officia....

TS. Trần Công Khanh. TS Hoàng Kim. Đánh giá khả năng thích nghi của một số giống sắn tại một số tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên

 Đánh giá khả năng thích nghi của một số giống sắn tại một số tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên 

Trần Công Khanh1, Hoàng Kim2, Nguyễn Hữu Hỷ1, Võ Văn Tuấn

DOWNLOAD 

TÓM TẮT

 Nghiên cứu chỉ số thích nghi và chỉ số ổn định của một số giống sắn nhằm xác định giống sắn có năng suất cao, thích hợp với một số tỉnh trồng sắn thuộc vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Kết quả khảo nghiệm bộ giống sắn qua hai năm 2009 và 2010, cho thấy giống sắn KM140 đạt năng suất củ tươi trung bình cao nhất trên 5 điểm (38,98 tấn/ha), kế đến là KM98- 5 ( 36,80 tấn/ha ) cao hơn so với năng suất củ tươi của giống sắn đối KM94 (32,38 tấn/ha). Phân tích tương tác giữa kiểu gen và môi trường (GxE) bởi mô hình toán học của Eberhart và Russell (1966) và phân nhóm kiểu gen các giống sắn theo môi trường khảo nghiệm bằng mô hình AMMI  cho thấy: ggiống sắn KM140 và KM98-5 cho năng suất cao thích nghi với môi trường canh tác thuận lợi, giống sắn KM94 cho năng suất ổn định và thích nghi rộng. Đề nghị cho áp dụng rộng rãi hai giống sắn KM98- 5 và KM140 trong sản xuất cho vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên.

GIỚI THIỆU

Sắn (Manihot esculenta Crantz) là cây lương thực quan trọng đứng hàng thứ 3 trên thế giới sau lúa gạo và lúa mì. Tại châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latin, gần 1 tỷ người đang sử dụng sắn như là nguồn lương thực chủ yếu nhằm đảm bảo an ninh lương thực. Sản phẩm của sắn là nguồn nguyên liệu quan trọng hàng đầu để chế biến nhiên liệu sinh học đồng thời cũng là cây thức ăn gia súc, cây hàng hoá xuất khẩu có giá trị để chế biến bột ngọt, bánh kẹo, mì ăn liền và các sản phẩm thiết thực trong đời sống hằng ngày Hoàng Kim Anh và ctv (2004). Cây sắn có nguồn gốc ở Nam Mỹ, sau đó được du nhập vào châu Phi và châu Á, đến nay sắn được trồng ở trên 100 nước nhiệt đới từ 300 N đến 300 S của ba châu lục nói trên (Bùi Huy Đáp, 1987).

Các nhà khoa học cho rằng: việc tăng năng suất cây trồng chủ yếu dựa vào giống, phân bón và kỹ thuật canh tác. Giống được coi là động lực hàng đầu để tăng năng suất và sản lượng. Sắn là cây trồng điển hình nhất về sự thành công trong việc ứng dụng giống mới và đã tạo được bước đột phá về năng suất sắn của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Việt Nam hiện là một trong những nước điển hình của châu Á trong việc ứng dụng công nghệ chọn tạo và nhân giống sắn lai sau Ấn Độ và Thái Lan Howeler. R.H (2008). Diện tích, năng suất và sản lượng sắn ở nước ta đã không ngừng tăng trưởng liên tục trong thời gian qua, đặc biệt là trong hơn một thập niên đầu của thế kỷ XXI. Năm 2000 diện tích 234.900 ha, năng suất 8,66 tấn/ha, sản lượng 2,03 triệu tấn. Năm 2012, tổng diện tích sắn cả nước khoảng là 550.000 ha, năng suất sắn củ tươi bình quân 17,69 tấn/ha, sản lượng 9,87 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 1,23 tỷ USD. So với năm 2000, sản lượng sắn đã tăng hơn 4 lần, năng suất sắn tăng gấp hơn 2 lần. Việt Nam hiện đã trở thành nước xuất khẩu tinh bột sắn đứng thứ hai trên thế giới sau Thái Lan (Nguyen Van Bo and Hoang Kim, 2008).

Mỗi giống sắn thích nghi với từng điều kiện môi trường sinh thái và thời vụ nhất định. Một số giống sau khi được công nhận và đưa ra sản xuất đã không phát huy được các đặc tính tốt ở các vùng sinh thái khác nhau. Điều này làm cho nông dân không xác định được cơ cấu giống sắn thích hợp để nâng cao năng suất và hiệu quả của sản xuất.

Đông Nam Bộ và Tây Nguyên là hai vùng sản xuất sắn hàng hóa quan trọng nhất ở Việt Nam. Năm 2012, cả hai vùng đã trồng 265 ngàn ha đạt sản lượng trên 5 triệu tấn. Trong đó, Đông Nam Bộ chiếm 115 ngàn ha, Tây Nguyên 150 ngàn ha (Trung tâm Thông tin PT NNNT, 2012). Giống sắn được trồng phổ biến ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên là KM94 (Hoàng Kim và Ctv, 1995); KM140 và KM98- 5 (Trần Công Khanh và Ctv, 2009).

Để nâng cao năng suất và sản lượng sắn cho vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên thì cần phải có cơ cấu giống sắn phù hợp với từng tiểu vùng sinh thái để thâm canh, tăng năng suất và nâng cao thu nhập là đòi hỏi cấp bách của sản xuất sắn hiện nay. Do đó việc  “Đánh giá khả năng thích nghi của một số giống sắn tại một số tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên ” là hết sức cần thiết.