Đánh giá khả năng thích nghi của một số giống sắn tại một số tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên
Trần Công Khanh1, Hoàng Kim2, Nguyễn Hữu Hỷ1, Võ Văn Tuấn
DOWNLOAD
TÓM TẮT
Nghiên cứu chỉ số thích nghi và chỉ số ổn định của một số giống sắn
nhằm xác định giống sắn có năng suất cao, thích hợp với một số tỉnh
trồng sắn thuộc vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Kết quả khảo nghiệm bộ
giống sắn qua hai năm 2009 và 2010, cho thấy giống sắn KM140 đạt năng suất củ tươi trung bình cao nhất trên 5 điểm (38,98 tấn/ha), kế đến là KM98- 5 ( 36,80 tấn/ha ) cao hơn so với năng suất củ tươi của giống sắn đối KM94 (32,38 tấn/ha). Phân tích tương tác giữa kiểu gen và môi trường (GxE) bởi mô hình toán học của Eberhart và Russell (1966) và phân nhóm kiểu gen các giống sắn theo môi trường khảo nghiệm bằng mô hình AMMI cho thấy: ggiống sắn
KM140 và KM98-5 cho năng suất cao thích nghi với môi trường canh tác
thuận lợi, giống sắn KM94 cho năng suất ổn định và thích nghi rộng. Đề nghị cho áp dụng rộng rãi hai giống sắn KM98- 5 và KM140 trong sản xuất cho vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên.
GIỚI THIỆU
Sắn (Manihot esculenta Crantz) là cây lương thực quan trọng
đứng hàng thứ 3 trên thế giới sau lúa gạo và lúa mì. Tại châu Á, châu
Phi và châu Mỹ Latin, gần 1 tỷ người đang sử dụng sắn như là nguồn lương
thực chủ yếu nhằm đảm bảo an ninh lương thực. Sản phẩm của sắn là nguồn
nguyên liệu quan trọng hàng đầu để chế biến nhiên liệu sinh học đồng
thời cũng là cây thức ăn gia súc, cây hàng hoá xuất khẩu có giá trị để
chế biến bột ngọt, bánh kẹo, mì ăn liền và các sản phẩm thiết thực trong
đời sống hằng ngày Hoàng Kim Anh và ctv (2004). Cây sắn có nguồn gốc ở
Nam Mỹ, sau đó được du nhập vào châu Phi và châu Á, đến nay sắn được
trồng ở trên 100 nước nhiệt đới từ 300 N đến 300 S của ba châu lục nói trên (Bùi Huy Đáp, 1987).
Các nhà khoa học cho rằng: việc tăng năng suất cây trồng chủ yếu dựa
vào giống, phân bón và kỹ thuật canh tác. Giống được coi là động lực
hàng đầu để tăng năng suất và sản lượng. Sắn là cây trồng điển hình nhất
về sự thành công trong việc ứng dụng giống mới và đã tạo được bước đột
phá về năng suất sắn của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Việt
Nam hiện là một trong những nước điển hình của châu Á trong việc ứng
dụng công nghệ chọn tạo và nhân giống sắn lai sau Ấn Độ và Thái Lan
Howeler. R.H (2008). Diện tích, năng suất và sản lượng sắn ở nước ta đã
không ngừng tăng trưởng liên tục trong thời gian qua, đặc biệt là trong
hơn một thập niên đầu của thế kỷ XXI. Năm 2000 diện tích 234.900 ha,
năng suất 8,66 tấn/ha, sản lượng 2,03 triệu tấn. Năm 2012, tổng diện
tích sắn cả nước khoảng là 550.000 ha, năng suất sắn củ tươi bình quân
17,69 tấn/ha, sản lượng 9,87 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 1,23 tỷ
USD. So với năm 2000, sản lượng sắn đã tăng hơn 4 lần, năng suất sắn
tăng gấp hơn 2 lần. Việt Nam hiện đã trở thành nước xuất khẩu tinh bột
sắn đứng thứ hai trên thế giới sau Thái Lan (Nguyen Van Bo and Hoang
Kim, 2008).
Mỗi giống sắn thích nghi với từng điều kiện môi trường sinh thái và
thời vụ nhất định. Một số giống sau khi được công nhận và đưa ra sản
xuất đã không phát huy được các đặc tính tốt ở các vùng sinh thái khác
nhau. Điều này làm cho nông dân không xác định được cơ cấu giống sắn
thích hợp để nâng cao năng suất và hiệu quả của sản xuất.
Đông Nam Bộ và Tây Nguyên là hai vùng sản xuất sắn hàng hóa quan trọng
nhất ở Việt Nam. Năm 2012, cả hai vùng đã trồng 265 ngàn ha đạt sản
lượng trên 5 triệu tấn. Trong đó, Đông Nam Bộ chiếm 115 ngàn ha, Tây
Nguyên 150 ngàn ha (Trung tâm Thông tin PT NNNT, 2012). Giống sắn được
trồng phổ biến ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên là KM94 (Hoàng Kim và Ctv,
1995); KM140 và KM98- 5 (Trần Công Khanh và Ctv, 2009).
Để nâng cao năng suất và sản lượng sắn cho vùng Đông Nam Bộ và Tây
Nguyên thì cần phải có cơ cấu giống sắn phù hợp với từng tiểu vùng sinh
thái để thâm canh, tăng năng suất và nâng cao thu nhập là đòi hỏi cấp
bách của sản xuất sắn hiện nay. Do đó việc “Đánh giá khả năng thích nghi của một số giống sắn tại một số tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên ” là hết sức cần thiết.






